Đỗ Xuân Hợp – Ông vua của ngành giải phẫu học (*) – VUSTA

đỗ xuân hợp

Video đỗ xuân hợp

Ông sinh ngày 8/7/1906 tại Hà Nội – con thứ năm của cụ Đỗ Xuân Đạt – một gia đình nghèo có truyền thống hiếu học và yêu nước. Khi cụ Lương Văn Can cùng những chí sĩ yêu nước lập ra trường Đông Kinh Nghĩa Thục thì cụ Đạt dù không ra dạy, nhưng vẫn bí mật giúp đỡ tài chính cho trường. Ngay từ nhỏ, cụ Đỗ Xuân Hợp đã nổi tiếng là cậu học trò giỏi nhất trường. Sau khi đậu ưu kỳ thi tiểu học thì phần thưởng là những cuốn sách đã được ông chất đầy trong một tủ lớn! Sau này theo học trường Bưởi, ông cũng là học sinh giỏi, chăm chỉ và khiêm tốn giúp bạn học kém hơn mình. Mỗi tháng được nhận học bổng 8 đồng, ông dùng để nuôi hai em tiếp tục ăn học như mình. Sau khi tốt nghiệp trung học với bằng thành chung loại ưu tú, ông theo học trường Cao đẳng y dược Đông Dương. Ông tính toán như vậy vì chỉ sau bốn năm học thì có thể đi làm để giúp đỡ gia đình. Mùa hè năm 1929, Đỗ Xuân Hợp tốt nghiệp ra trường. <?xml:namespace prefix=”o” ns=”urn:schemas-microsoft-com:office:office” ? ?>

Lúc này tình yêu đến với ông. Người đó là bà Nguyễn Thị Thịnh – một nữ sinh trường Sư Phạm Hà Nội. Sau này nên duyên nợ thì người vợ đã cùng theo chồng lên đường nhận nhiệm sở. Đỗ Xuân Hợp được phân công về nơi rừng thiêng nước độc ở Bắc Hà (gần Lào Cai)! Nơi đây trong thập niên 30 vẫn còn là nơi “ánh sáng văn minh” chưa rọi tới! Những người dân còn tin vào thầy mo hơn là tin vào khoa học cho dù họ vẫn kính trọng gọi ông là “quan đốc”. Hãy nghe một người học trò của ông là bác sĩ – TS. Lê Gia Vinh kể lại: “Một hôm đi qua một quả đồi vắng, bỗng nhiên nghe tiếng chập cheng lốc cốc, kèm theo tiếng rên rỉ khóc lóc, “quan đốc” lần mò vào tận nơi, thấy một cụ già bụng trương phình, đang hổn hển nằm chờ chết, chung quanh vợ con gào khóc, khấn vái trước một bàn thờ gà xôi, rượu, hoa quả đủ thứ, một thầy mo đang phồng mang trợn mép, mặt đỏ tía tai, vung gươm nhảy nhót, truyền phán các âm binh xua đuổi ma quỷ. Thấy “quan đốc” vào , thầy mo vội vã chuồn mất. Sau khi Bác sĩ Hợp thăm bệnh xong, thầy ký được gọi đến, mang dụng cụ tháo thụt ngay cho ông cụ. Phải đả thông mãi, ông cụ và gia đình mới bằng lòng cho làm. Ra được một thau sành đầy. Thấy nhẹ nhàng thoát chết, ông cụ và gia đình lạy lấy lạy để, cám ơn mãi “quan đốc” nhân từ cứu nhân độ thế” (Con đường vinh quang- Lê Gia Vinh – NXB Văn Hóa 1991). Sống trong một môi trường như thế, vợ chồng Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp đã làm hết sức mình để cải thiện sức khỏe cho người dân còn mê muội, dốt nát. Ngay từ những năm tháng này ông đã có quan niệm: cứu được bệnh nhân thoát khỏi tay tử thần là niềm vui của chính mình. Muốn làm được như vậy thì không thể không nâng cao tay nghề và trình độ hiểu biết của mình về y học.

Cuối xuân năm 1932, ngoài trời rét lạnh. Những ngọn gió lang thang đi qua rừng cây trong đêm tối làm vọng lại những âm thanh buồn não ruột. Đang nằm trong chăn ấm, hai vợ chồng cùng chúi mũi đọc hài kịch của Molière cho vơi nỗi nhớ nhà thì đột nhiên nghe những tiếng súng vọng lên “đoàng! đoàng!”. Rồi có những tiếng kêu thất thanh: “Cướp! Cướp!” Tình hình những năm tháng này chưa yên ổn, bọn thổ phỉ từ biên giới tràn sang cướp phá như chỗ không người! Ông Hợp vội tắt đèn măng – xông, với tay lấy khẩu súng trường đang treo trên tường nhà rồi dẫn vợ chạy ra chỗ ẩn náu. Ông dự định gặp bọn chúng kéo đến là bắn. Nhưng hỡi ôi! Chúng đông quá. Ông bất lực nói: “Chúng mày muốn lấy gì thì lấy! Để cho tao sống, tao còn chữa bệnh cho dân”. Thế là chúng lấy hết mọi thứ! Thấy chiếc nhẫn cưới đang đeo trên tay, một tên thổ phỉ định rút dao ra chặt tay ông để cướp thì ông nhanh chóng tháo ra đưa ngay cho nó. Như vậy cả gia tài dành dụm chỉ trong thoáng chốc tan theo mây khói. Lúc binh lính Pháp lên trấn áp bọn thổ phỉ thì chúng đã cao chạy xa bay tự lúc nào rồi!

Nhưng trong đời còn có câu: “Tái ông thất mã” để chỉ việc đời biến hóa khôn lường, trong rủi có may và ngược lại. Sau tai họa trên thì nửa tháng sau, ông được mời lên đồn binh để nhận tiền bồi thường! Với số tiền này ông đã dùng để mua tài liệu y học từ bên Pháp và theo học hàm thụ trường Đại học tổng hợp tại <?xml:namespace prefix=”st1″ ns=”urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags” ? ?> Paris . Hai vợ chồng cùng học say mê và chăm chỉ. Cũng trong thời gian này, ông nhận được thông báo: Trường Y khoa Đông Dương đang thi tuyển chọn lấy một trợ lý ngành giải phẫu cho Viện giải phẫu của trường. Thế là với quyết tâm của mình, ông quyết tâm thi. Cuối năm 1932, ông trở về Hà Nội nộp đơn thi và trúng tuyển. Nhờ vậy, ông được chuyển công tác về Hà Nội, phụ việc cho Giáo sư P. Huard – giám đốc của Viện giải phẫu học. Qua năm sau, nhờ có sự chứng nhận và giới thiệu của trường hàm thụ mà vợ chồng được thi tú tài. Cả hai kỳ thi họ đều đậu thủ khoa. Nếu Bác sĩ Hồ Đắc Di là người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bác sĩ phẫu thuật tại Pháp thì Đỗ Xuân Hợp là người đầu tiên trợ giảng và hướng dẫn cho sinh viên thực tập trong khoa phẫu thuật của trường Y khoa Đông Dương.

Thông qua những kinh nghiệm đã thu thập được sau hơn 10 năm làm công việc này, Đỗ Xuân Hợp đã gây chấn động trong giới y học thời bấy giờ bằng bộ sách Morphologie humaine et anatomie artistique (Hình thái học và giải phẫu thẩm mỹ) in năm 1942. Với bộ sách này ông đã được Viện Hàn Lâm y học nước Pháp tặng giải thưởng Testut vào năm 1949. Ngoài ra, ông còn công bố nhiều công trình nghiên cứu có giá trị khác. Có thể nói từ năm 1936 Đỗ Xuân Hợp đã nghiên cứu về bộ xương người Việt Nam hiện đại và một số sọ hoặc bộ xương người Việt Nam thời cổ. Ngoài ra ông còn nghiên cứu cả về não, mạch máu thần kinh và nội tạng v.v… Hầu hết những công trình này đều viết bằng tiếng Pháp. Trong thời gian này có hai chi tiết thú vị. Một là mùa thu năm 1942, khi xem triển lãm tại phòng tranh mỹ thuật Đông Dương, vợ ông đã mua bức tranh Gia đình thuyền chài của họa sĩ L.X.N vừa đoạt giải thưởng đặc biệt. Sau khi họa sĩ đem tranh đến tận nhà treo, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp mới có điều kiện ngồi ngắm nghía bức tranh . Chỉ giây lát sau ông đã phát hiện ra chi tiết sai về cơ bắp khi họa sĩ vẽ nhân vật ngồi co chân. Sự góp ý của ông chính xác và thuyết phục nên họa sĩ này vui vẻ đem về vẽ lại, nhờ vậy bức tranh mới đạt hiệu quả trong nghệ thuật. Hai là với tấm bằng Testut – do biến chuyển thời cuộc nên Đỗ Xuân Hợp không nhận được. Mãi đến sau này, khi Tổng thống Pháp Francois Mitterrand sang thăm Việt Nam có gặp vợ cố Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp. Trong trò chuyện thân mật, bà có nhắc đến chuyện này, điều chúng ta không ngờ là chỉ thời gian sau, Viện hàn lâm y học Pháp đã gửi đến cho gia đình cố bác sĩ tấm bằng này. Theo lời kể của vợ cố bác sĩ Đỗ Xuân Hợp chúng ta có thể thấy được tinh thần hiếu học của ông. Bà nói: “Đối với ông nhà tôi trên đời này chỉ có sách là quan trọng nhất. Không lúc nào tay ông rời quyển sách. Thậm chí ngay trong lúc ăn, ông cũng chúi mũi vào sách, nhiều lúc tôi phải đút cơm cho chồng tôi như chăm sóc trẻ nhỏ. Cơm ngon hay khê nhão ông cũng không quan tâm, cho gì ăn nấy, mắt chỉ dán vào sách hoặc giáo trình sẽ giảng dạy cho sinh viên. Sau này được nhà nước giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, nhưng ông vẫn không thay đổi thói quen này. Còn chuyện tiền nong thì ông không bao giờ để ý đến. Mỗi tháng, người lái xe riêng của nhà tôi nhận tiền lương trao cho tôi. Có lần tôi hỏi tiền lương mỗi tháng bao nhiêu thì ông lắc đầu không biết. Có thể nói nhà tôi là người lấy việc say mê nghiên cứu y học làm niềm vui. Tôi tự hào là trong tổng số gần 100 công trình đã công bố bằng tiếng Pháp và tiếng Việt, tôi có đôi lần đóng góp cho chồng tôi những việc nhỏ. Chẳng hạn như tìm giúp nhà tôi tiếng Việt phù hợp khi dịch tài liệu tiếng Pháp hoặc năm 1951, nhà tôi nhiều ngày đăm chiêu suy nghĩ khi chuyển ngữ một loại xương từ tiếng latinh sang tiếng Việt. Trong sách tiếng Latinh ghi là Tibia, có người dịch là xương ống quyển nhưng cũng chưa thích hợp lắm. Không biết đặt tên gì cho phù hợp, nhà tôi suy nghĩ mãi khiến tôi cũng sốt ruột. Lúc đó, tôi đang ngồi dùng chày giã cua, thì Bác sĩ Nguyễn Thế Khánh đi ngang qua, nhà tôi gọi vào và giãi bày nỗi khó khăn của mình. Thấy tôi đang cầm chày trên tay, Bác sĩ Khánh nhìn tấm ảnh vẽ khúc xương rồi buột miệng nói đùa: “Ô hay trông giống cái chày quá nhỉ!”. Đang chăm chú làm việc nghe vậy tôi phá lên cười vui vẻ. Nhà tôi cũng cười và đặt tên là xương chầy – vì đó là từ đúng nhất mà lâu nay nhà tôi cứ cố gắng tìm kiếm trong vốn từ ngữ tiếng Việt của mình. Dù là người rất giỏi tiếng Pháp, dùng tiếng Pháp để dạy cho sinh viên, nhưng ngay sau Cánh mạng tháng Tám, thực hiện chủ trương của Đảng đưa tiếng Việt vào trường Đại học thì ông là một trong những người đầu tiên hưởng ứng bằng tất cả tâm huyết của mình.

Khi toàn quốc kháng chiến nổ ra tiếng súng hào hiệp và chính nghĩa thì Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp bỏ lại sau lưng căn biệt thự số 69 phố Trần Xuân Soạn (Hà Nội), bỏ lại những tiện nghi vật chất để lên đường tòng quân. Sự cương quyết của ông khi đi theo kháng chiến là việc không phải ai cũng làm được, vì bấy giờ ông đang giảng dạy ở Đại Học Y khoa, lại chữa bệnh ở bệnh viện Phủ Doãn và còn có cả phòng mạch tư ở phố Chợ Hôm. Nhưng theo tiếng gọi của Tổ quốc, vợ chồng ông ra đi nhẹ nhàng và thanh thản. Vào tháng 3/1947 họ ở Việt Trì. Sau khi Pháp tấn công thì phải dắt díu nhau chạy lên Lâu Thượng rồi nửa đêm chạy ngược sông Lô để qua Bình Sơn (Vĩnh Yên). Từ đây, Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được giao nhiệm vụ làm giám đốc Quân y viện Liên khu 10. Vào tháng 3/1949, nhiều chiến dịch lớn đã mở và quân ta đánh thắng giặc Pháp nhiều trận oanh liệt. Để kịp thời đào tạo cán bộ quân y phục vụ chiến trường, Trường Đại học Quân y được thành lập ở cánh rừng Liễn Sơn, xã Hồng Hoa, huyện Tam Dương (Vĩnh Phú). Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp nhận thêm nhiệm vụ giảng dạy cho trường, ngoài ra, ông còn phải dạy ở Đại học y khoa Chiêm Hóa (Tuyên Quang) do Bác sĩ Hồ Đắc Di làm hiệu trưởng. Từ năm 1950, ông được chỉ định làm Hiệu trưởng trường Đại học Quân y. Tuy bận nhiều việc nhưng ông không ngừng nghiên cứu khoa học và biên soạn giáo trình giảng dạy.

Trực tiếp mổ xẻ, băng bó, chăm sóc vết thương cho thương bệnh binh từ chiến trường chuyển về, ông nhận thấy vết thương tứ chi bao giờ cũng chiếm một tỉ lệ lớn, do đó ông đã kịp thời biên soạn quyển Giải phẫu tứ chi và Thực hành y khoa. Tập sách này được xuất bản năm 1952 tại Việt Bắc – nó không chỉ là tài liệu chính giảng dạy trong nhà trường mà còn là cẩm nang quý báu cho cán bộ quân y tham khảo để phục vụ thương binh ngay tại chiến trường. Với tác phẩm này, ông được Bác Hồ gửi thư khen ngợi và Chính phủ tặng Huân chương kháng chiến hạng ba. Từ sự khích lệ này, trong suốt 20 năm (1952-1971) ông đã dành hết tâm lực để hoàn thành bộ sách nghiên cứu về giải phẫu học gồm nhiều tập, với 2000 trang, 900 hình vẽ minh họa có giá trị lâu bền như Giải phẫu bụng, Giải phẫu ngực… đã được Nhà xuất bản y học tái bản nhiều lần. Ngoài ra còn có thể kể đến những tác phẩm y học ông viết trong thời gian chống Pháp như Triệu chứng học, Dược học, Thực hành bệnh viện…

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội địa cầu, cùng với đoàn quân chiến thắng, gia đình Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp trở về Hà Nội. Về lại thủ đô, với chức Hiệu trưởng Viện Đại học Quân y, ông góp tay vào việc xây dựng nền y học nước nhà.

Là một nhà khoa học, một người thầy thuốc, Ông đã hết lòng, hết sức đem hết khả năng và kinh nghiệm của mình để cứu chữa cho thương bệnh binh, luôn luôn thể hiện tốt lời dạy của Hồ Chủ Tịch: “Người thầy thuốc giỏi phải đồng thời như mẹ hiền”. Ông mất năm 1985 tại Hà Nội.

Với những đóng góp của mình, Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được Nhà nước và quân đội trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Độc lập, Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Quân kỳ quyết thắng, Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang, Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1)… Nhưng có lẽ phần thưởng cao quý nhất đối với ông là ông đã tự nguyện sống trọn vẹn cả cuộc đời cho công việc phụng sự y học với tư tưởng “cứu nhân độ thế” mà Thánh y Lê Hữu Trác đã dạy.

(*) Bài viết được trích từ tư liệu của Trường Đại học Y Hà nội (http://www.hmu.edu.vn)

ko66 | f8bet | rồng bạch kim | sunwin | da88