Vô nghĩa là không. Tri nghĩa là hiểu biết. Vô tri ghép lại là không hiểu biết. Người vô tri là người không có khả năng suy nghĩ, xem xét cũng như giải quyết đúng vấn đề. Người vô tri cũng là người không biết bản chất vô thường, vô ngã, khổ, không của cuộc sống. Người vô tri không có chánh tư duy.
Vô nghĩa là không. Tri là hiểu biết. Vô tri ghép lại có nghĩa là không hiểu biết
I. Ý nghĩa của vô tri trong Phật giáo
Theo giáo lý của đạo Phật, con người được tạo thành bởi ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Hành, Tưởng và Thức). Sắc đại diện cho phần thân, phần sinh lý. Thọ chính là cảm giác. Hành là các hiện tượng tâm lý phát khởi bao gồm vui, giận, ghen hờn, buồn, thương, ghét. Tưởng chính là tri giác. Thức hay còn gọi là tàng thức là nơi cất giữ những cảm giác từ thọ và tri giác.
Trong Kinh Pháp Cú, Phật dạy chúng sinh về tư duy và nhận thức của người vô tri luôn hướng về ái dục. Bởi vì vô tri đôi khi là chính mình tự che lấp sự thật. Vô tri luôn đi liền với tà kiến. Chỉ có tuệ giác chân thực, tức là làm người phải có chánh tư duy thì mới có khả năng phân biệt. Điều này sẽ giúp chúng sinh thấy rõ được bản chất của vô thường, khổ, không, vô ngã để từ đó có khả năng ly dục, đoạn trừ tất cả khổ não.
Tư tưởng ỷ dâm dục
思 想 猗 婬 欲
Tự phú vô sở kiến
自 覆 無 所 見
Duy tuệ phân biệt kiến
唯 慧 分 別 見
Năng đoạn ý căn nguyên
能 斷 意 根 原
Phật đã dạy cách thức đoạn trừ tất cả mọi khổ não để có được cuộc sống an vui trong Kinh Tạp A Hàm như sau:
“Đối với sắc không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục thì không thể đoạn trừ khổ não,
“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức mà không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục, thì không thể đoạn trừ khổ não.
“Này các Tỳ-kheo, đối với sắc, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì có thể đoạn trừ khổ não.
“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành và thức, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì có thể đoạn trừ khổ não.”
(於色不知、不明、不斷、不離欲,則不能斷苦。如是受、想、行、識,不知、不明、不斷、不離欲,則不能斷苦,
Ư sắc bất tri, bất minh, bất minh, bất ly dục, tắc bất năng đoạn khổ. Như thị, thọ tưởng, hành thức bất tri, bất minh, bất minh, bất ly dục, tắc bất năng đoạn khổ.
於色若知、若明、若斷、若離欲,則能斷苦;如是受、想、行、識,若知、若明、若斷、若離欲,則能堪任斷苦。
Vu sắc nhược tri, nhược minh, nhược ly dục, tắc năng đoạn khổ. Như thị, thọ tưởng, hành thức nhược tri, nhược minh, nhược ly dục, tắc năng đoạn khổ).
Là con cháu của Phật, vâng theo lời của Phật, mỗi người cần phải thực hành chánh kiến, chánh tư duy để từ đó có được có tri giác về vô thường, khổ, không, vô ngã của vạn vật mà không còn tham đắm vào sắc dục. Tri giác giúp người tu có khả năng đoạn trừ khổ đau.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Dưới đây là bài Kinh Vô tri trong Tạp A Hàm Kinh
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Đối với sắc không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục thì không thể đoạn trừ khổ não.
“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức mà không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục, thì không thể đoạn trừ khổ não.
“Này các Tỳ-kheo, đối với sắc, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục thì có thể đoạn trừ khổ não.
“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành và thức, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì có thể đoạn trừ khổ não.”
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Phật dạy người vô tri không có chánh tư duy, không thấy rõ được bản chất của vô thường, khổ, không, vô ngã
II. Quá trình từ vô tri đến không biết gì
Vô tri không phải chỉ là không biết mà còn không biết rằng bản thân không biết. Ngược lại, “không biết gì” lại là kết quả của cả quá trình thức tỉnh, thừa nhận sự hữu hạn về tri thức của chính mình và của tất cả con người nói chung.
Câu nói nổi tiếng từ 2.500 năm trước: “Tôi chỉ biết một điều, đó là không biết gì cả!” của “triết gia đường phố” Socrates vẫn có sức nặng trong triết thuyết giáo dục hiện đại ngày nay: chúng ta thường bắt đầu như là một nhà giáo điều, và – nếu mọi việc trôi chảy – thường là kết thúc như là nhà hoài nghi, theo nhận xét của nữ triết gia sắc bén của thế kỷ XX – Hannah Arendt.
Là một nhà triết gia, Socrates… không có gì để “dạy” cả. Ông không phải là nhà ngụy biện, không tự vỗ ngực có thể dạy khôn cho người khác. Trước tòa, ông đã bác bỏ việc buộc tội ông “làm hư hỏng” thanh niên, nhưng cũng không thể tự biện hộ rằng bản thân mình đã giáo dục cho nhiều thanh niên “tốt “ lên! Ông chỉ bảo rằng: “một cuộc đời không biết suy xét là một cuộc đời không đáng sống”, đơn giản thế thôi!
Trong công việc thường ngày nhỏ nhặt, ta có thể “biết” thêm nhiều việc. Nhưng, với các vấn đề hệ trọng hơn như việc nên sống và chết như thế nào, cũng như phải hiểu thế nào về tình yêu, sự công bằng và lòng dũng cảm,… Socrates đã mở ra “một vũ trụ của sự không biết gì”.
Đó là vấn đề của “tâm thế”, của “thái độ”. Có hay không có, chỉ trong nhất thời hay có lâu dài thái độ và tâm thế ấy, chính là tất cả thông điệp của Socrates. Ta còn thử xét xem những hệ quả gì đến từ triết thuyết giáo dục “hoài nghi kiểu Socrates” trong tư duy của giáo dục đương đại.
Socrates – vị triết gia vĩ đại với câu nói nổi tiếng: “Tôi chỉ biết một điều, đó là không biết gì cả!”
Trên đây là ý nghĩa cụm từ vô tri trong Phật pháp do Vật phẩm Phật giáo tổng kết. Để tìm hiểu thêm thông tin chi tiết về những ý nghĩa các cụm từ Phật pháp phổ biến và các ấn phẩm Phật giáo vui lòng truy cập website vatphamphatgiao.com hoặc liên hệ hotline 0867. 671. 366 để được tư vấn, giải đáp thắc mắc liên quan.
Nam Mô A Di Đà Phật!